Bác Hồ không phải là nhà thơ làm thơ cách mạng mà là một nhà cách mạng làm thơ, bởi vậy với Người, văn thơ là một phương tiện để tuyên truyền, vận động quần chúng đứng lên làm cuộc đổi đời, giành cơm no áo ấm. Từ những ngày đầu hoạt động trên đất Pháp cho tới giờ phút ngồi viết bảnDi chúcthiêng liêng.
Vào khoảng cuối năm 1941, đầu năm 1942, sau khi Nhật vào Đông Dương, dân ta rơi vào cảnh "một cổ hai tròng" vô cùng khốn đốn. Chính trong bối cảnh sôi sục đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Người đã về sống và làm việc tại hang Pác Bó - Cao Bằng. Ý thức sâu sắc mục đích của việc học tập, nghiên cứu lịch sử để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, từng bước đưa họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, cuối năm 1941, Người đã viết cuốn Lịch sử nước ta.
Tác phẩm Lịch sử nước ta do Việt Minh tuyên truyền Bộ ấn hành ra mắt lần đầu tiên vào khoảng tháng 2-1942 tại Pác Bó. Chỉ với 208 câu thơ lục bát, tiếp sau đó là niên biểu nước ta được Người đặt dưới tên gọiNhững năm quan trọng, gồm 30 cột mốc, bắt đầu từ Hồng Bàng - năm 2879 trước Tây lịch và kết thúc là cái nhìn đầy tính dự báo tài tình của lãnh tụ cách mạng:Việt Nam độc lập – 1945
Nguyễn Ái Quốc đã chọn lọc, xác định giới thiệu những nhân vật, những sự kiện chân thực khách quan đủ để khôi phục chính xác bức tranh hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc với những nét cơ bản về truyền thống yêu nước, đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Mở đầu tác phẩm, Bác đánh giá cao vấn đề nghiên cứu lịch sử nguồn gốc dân tộc và tự hào về truyền thống tốt đẹp của tổ tiên:
"Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam...".
Ðọc tác phẩm, chúng ta nhận thấy lịch sử dân tộc không còn là lịch sử của các triều đại với vai trò tuyệt đối của các vua chúa, mà là lịch sử của quần chúng nhân dân ở mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi thành phần:
"Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn".
Bác đã lần lượt kể về bốn ngàn năm "Tổ tiên rực rỡ", bắt đầu với "Hồng Bàng là tổ tiên ta". Xuyên suốt thời kỳ hình thành của dân tộc trước công nguyên, tác giả chọn nêu hình ảnh Phù Đổng, người anh hùng thần thoại "dẹp loài vô lương" cứu nước. Kể từ năm 40 sau công nguyên trở đi, dồn dập có biết bao anh hùng đứng lên thay nhau chống ngoại xâm,
Nước Tàu cậy thế đông người
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Dù bao phen thất bại nặng nề nhưng kẻ thù vẫn luôn tìm cách thôn tính, chiếm đoạt, muốn biến nước ta thành một thứ quận huyện của chúng. Nhưng dân ta là dân tộc anh hùng nên đâu chịu cúi đầu. Hai Bà Trưng là tấm gương tiết liệt "Ra tay khôi phục giang sơn / Tiếng thơm đài tạc đá vàng nước ta". Tiếp đó là một bậc nữ lưu tuổi đôi mươi gan vàng dạ sắt khởi binh đánh giặc. Đó là Triệu Ẩu, người con xứ Thanh "khởi binh cứu nước" từng "đánh đông, dẹp bắc" khiến kẻ thù mất vía.
Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta được tiếp nối với Mai Hắc Đế, Ngô Quyền đã "Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm" mang lại thời kỳ hoà bình với vai trò của các bậc anh hùng hào kiệt vừa dựng xây vừa chống ngoại xâm bảo vệ non sông gấm vóc. Bác Hồ đã lần lượt điểm qua những nhân vật tiêu biểu, như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Cô và rất nhiều những nhân vật lịch sử tiêu biểu khác nữa được tác giả nêu ra qua từng thời kỳ lịch sử.
Tác phẩm đã khéo kết hợp được hai yêu cầu khoa học và nghệ thuật dưới hình thức thơ lục bát rất quen thuộc với nhân dân ta. Lời thơ ngắn gọn, dung dị, dễ hiểu, nhưng rất súc tích, giúp người đọc ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc và nhận thức đúng đắn lịch sử của đất nước.
Về phương pháp viết sử, Nguyễn Ái Quốc đã chọn lọc sự kiện, tài liệu. Quan trọng nhất là Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng nhận định, đánh giá khái quát các sự kiện và nhân vật lịch sử tiêu biểu.
|